Nhiều người nghĩ rằng cần phải có xuất phát điểm cao, nhiều bằng
cấp, những mối quan hệ đặc biệt mới có thể thành công. Hoàn toàn sai
lầm!
Hãy đọc những câu chuyện dưới đây bạn sẽ hiểu rõ điều đó…
Chung Ju-Yung: Biến điều không thể thành có thể.
Từ
những thất bại cay đắng nhất thời trai trẻ, vượt lên những khó khăn,
đương đầu với thử thách, biến điều không thể thành hiện thực, Chung
Ju-Yung - người sáng lập tập đoàn Huyndai - đã góp phần đưa một Hàn Quốc
chiến tranh triền miên, khí hậu khắc nghiệt trở thành một nền kinh tế
vững mạnh đáng khâm phục.
Tuổi thơ và ba cuộc trốn chạy
Sinh
ra và lớn lên trên vùng quê Asan nghèo khó, trong một gia đình nông
dân đông anh em, quanh năm cần cù lao động cũng chỉ đủ ăn, tuổi thơ của
Chung Ju-Yung gắn liền với chế độ thống trị của Nhật Bản, nhân dân Hàn
Quốc lúc đó sống trong cảnh dè sẻn "sáng cơm, tối cháo" từng ngày.
Asan
là vùng quê khí hậu khắc nghiệt: mùa khô thì hạn hán như muốn đốt cháy
tất cả, mùa mưa thì mang đến những trận hồng thủy, mùa đông thì dìm
tất cả ngập trong tuyết. Tuyết rơi dày hơn một mét, có khi đến hai mét,
người dân phải đào đường hầm mà đi. Chỉ cần mưa đến muộn một chút vào
mùa xuân, hay một cơn mưa đá trong mùa hè hoặc sương muối sớm vào mùa
thu là cả năm mất mùa.
Mười
bốn tuổi Chung Ju-Yung tốt nghiệp tiểu học, ngay lúc ấy giấc mơ học
tiếp để trở thành thầy giáo tiểu học đã ấp ủ trong đầu ông. Người cha
thì luôn muốn con trai trở thành một nông dân giỏi, nhưng ông chỉ muốn
thoát khỏi vùng quê nghèo đó, dù làm công nhân nhà máy cũng chẳng sướng
hơn làm một nông dân. Thế là ý chí thúc giục ông lên thủ đô Seoul, tự
học, vượt qua kỳ thi để trở thành một luật sư như những gì ông đọc được
trong một trong báo.
Lần
đầu tiên cùng một người bạn trốn nhà đi, đường lên thành phố khá xa
nên ông phải đi xin cơm. Vận may đến với ông và người bạn khi họ được
nhận làm công nhân xây dựng đường xe lửa Bình Nhưỡng - Gowon. Ý đồ gom
góp tiền đi Seoul chưa thành thì cha ông tìm thấy và đưa về. Trở về nhà
nhưng ông vẫn bực tức trong lòng: "Những đồng tiền quý giá mà mình làm
được chẳng là bao nhưng đó là công sức của chính mình. Nếu có thể cho
mình tiếp tục công việc thì mình có đủ tự tin để khám phá cái thế giới
mới mẻ và rộng lớn bao la này".
Lần
thứ hai trong tay, ông lại bị một người đàn ông đứng tuổi lừa hết
tiền. Cũng chính vì tin rằng ông ta sẽ kiếm cho mình một công việc
trong khách sạn ở Seoul nên ông lại một lần nữa trắng tay. Sau chuyến
đi 10 ngày ấy, ông lại bị một người bà con đưa về. Ông chấp nhận trở
lại làm nông dân vì cảm thấy có lỗi khi làm cha đau lòng. Nhưng tâm trí
ông chỉ hướng về Seoul, ý chí thoát nghèo trong ông vẫn không thay
đổi.
Suy
nghĩ kỹ lưỡng, lần thứ ba ông trộm 70 won bán bò của bố để lên Seoul
học kế toán. Ông rất khâm phục Napoleon, người sinh ra trong một gia
đình nghèo, nhờ tinh thần bất khuất, dũng cảm cuối cùng đã trở thành
Hoàng đế Pháp. Ông cũng thấy tuổi thơ mình có nhiều nét giống Lincoln -
xuất thân nông dân, rồi ra thành phố lao động và sau đó trở thành Tổng
thống thứ 16 của Hoa Kỳ.
Mới
học được hai tháng, bất ngờ người cha lại xuất hiện trước mặt ông,
nhưng không giận cũng không mắng, cha ông chỉ nói vài lời: "Con phải nhớ
con là một thằng nhà quê học hết cấp 1, ở Seoul người ta học hết
trường Cao đẳng còn thất nghiệp đầy cả đống. Cha già rồi, con là con
trưởng thì phải giúp cha, con mà bỏ mặc thì cả nhà sẽ thành bầy ăn
mày". Lời cha cứa vào trong lòng ông, hình ảnh người mẹ và các em hiện
lên trước mắt, nỗi buồn ngập tràn và ông đã khóc. Và ông lại thất bại
trong chuyến đi lần này.
Ý chí có kiên cường, con người có mạnh mẽ thế nào, vẫn không vô tình và bỏ mặc những người thân yêu.
Từ khuân vác thành giám đốc
Sau
ba lần lên Seoul không thành, Chung Ju-Yung vẫn không từ bỏ giấc mơ
thoát khỏi cái nghèo khổ của vùng quê heo hút và khắc nghiệt ấy.
Dường
như may mắn đã mỉm cười với ông trong lần thứ tư trốn nhà, ông xin
được một chân khuân vác ở công trình xây dựng trường học Bosung (ĐH Hàn
Quốc bây giờ).
Sau
hai tháng tìm tòi công việc, ông trở thành nhân viên phân phối gạo lẻ
cho của hàng gạo "Phục hưng Thương hội". Do có kiến thức kế toán học
được trước đó, ông được chủ cửa hàng rất tin tưởng.
Sau
4 năm làm việc ở đây, sự kiên trì, say mê, cần cù, chịu khó, thật thà
của Chung Ju-Yung đã khiến ông chủ Phục hưng Thương hội quyết định trao
lại cửa hàng cho ông thay vì đứa con trai ông ăn chơi, trác táng của
mình. Ông đổi tên cửa hàng thành "Kinh nhất Thương hội". Từ một kẻ không
xu dính túi, Chung Ju-Yung đã có trong tay một cửa hàng phân phối gạo
lớn khi mới 22 tuổi nhờ uy tín tích lũy được trong bốn năm trời.
Năm
1939 chiến tranh xảy ra, chế độ phân phối gạo được ban bố, tất cả các
cửa hàng buôn bán gạo trong cả nước bị đóng cửa. Trước cú sốc lớn đó,
ông vẫn vững lòng tin: nếu toàn tâm, toàn ý dốc sức thì bất cứ việc gì
cũng có thể thành công.
Ông
về quê mua cho cha thêm 660 mét vuông đất và biếu cha một khoản tiền
vốn. Đầu năm sau, hoài bão làm giàu lại thôi thúc ông lên Seoul, mảnh
đất mà người trượng phu có thể vật lộn với số mệnh.
Khi
đang lang thang với số vốn ít ỏi, ông được một người bạn cho biết một
nhà máy sửa chữa ôtô đang có ý định chuyển nhượng. Ông mù tịt về ôtô
nhưng người bạn khẳng định ngành này cần ít vốn mà kiếm nhiều tiền, còn
hứa sẽ tập hợp thợ giỏi cho ông, cần nhất là có 3.500 won để chuyển
nhượng. Nhờ uy tín thời buôn bán gạo, ông vay được 3.000 won từ một
người cho vay lãi mà không cần thế chấp, chỉ bằng uy tín. Gom góp cả
vốn, vay và được hai người bạn giúp đỡ, ông có 5.000 won để tiếp quản
nhà máy sửa chữa ô tô Ado Service vào năm 1940.
Ông
bắt đầu công việc mới với tràn trề hy vọng. Mọi việc ban đầu đều trôi
chảy, khách đến ngày càng đông. Nhưng không may, một buổi sáng, một
công nhân sơ ý để dầu bén lửa trong khi rửa tay khiến cả nhà máy bốc
cháy, trong đó có cả những chiếc xe đắt tiền vừa sửa xong của khách.
Tất cả thành tro bụi, ông đứng trước nguy cơ phá sản, nợ chồng chất.
Ông
lại tìm đến người cho vay nặng lãi, không phải để trả nợ mà là vay
thêm, vẫn không thế chấp cái gì ngoài uy tín. Ông nhanh chóng xây dựng
lại nhà máy, công việc ngày càng nhiều, làm cả ngày lẫn đêm. Ông cũng
làm việc như một công nhân. Cạnh tranh với các xưởng sửa chữa hàng đầu
trong thành phố thời đó, ông đề ra tiêu chí sửa nhanh gấp 2 - 3 lần. Vì
thế mà xe hơi của thành phố Seoul cứ ùn ùn kéo về xưởng của ông.
Ông
mở rộng mặt bằng, tìm thêm khách hàng: người ngoại quốc, quân đội,
ngoại thành... Bản thân ông dần nắm vững mọi nguyên lí hoạt động của tất
cả các loại máy móc, xe cộ. Và Công ty công nghiệp xe hơi Huyndai ra
đời ngày 25/5/1947, ông là giám đốc.
Người
ta khi thành công thì nghĩ là do may mắn, còn khi công việc không
suôn sẻ thì lại đổ cho là không may. Nhưng đối với Chung Ju-Yung thì: “Một
người không tin là có vận xấu, người đó sẽ không có vận xấu. Mọi thứ
đều quân bình, vận may rủi đều đến với con người như nhau. Quan trọng
nhất là phải nỗ lực, nỗ lực không ngừng và biết chớp thời cơ”.
Ý tưởng độc đáo, tự tin vào chính mình
Chiến
tranh với Nhật ngày càng khốc liệt buộc ông phải sát nhập, rồi nhượng
lại công ty cho người khác. Bắt đầu lại từ số không, ông xin vào làm ở
xưởng chế luyện Choksan và chờ đợi cơ hội.
Ông
dần khôi phục lại công ty của mình. Một lần lên cơ quan hành chính
nhận tiền, ông gặp các nhà thầu xây dựng. Ông nhận được 100 won thì họ
lãnh mấy ngàn won - cũng một khoảng thời gian và công nhân như nhau mà
tiền công lại chênh lệch một trời một vực. Ngay lập tức ông treo thêm
tấm biển “Công ty xây dựng cơ bản Huyndai”. Ông trúng một hợp đồng sửa
chữa trị giá 1.530.000 won ngay trong năm đầu tiên.
Có
kinh nghiệm về xây dựng cơ bản, lại tự tin vào quyết định đúng đắn
của mình, ông không thấy cái gì là khó khăn. Ông luôn tuân theo một
nguyên tắc: "Tin tưởng 90 phần trăm sẽ thành và 10 phần trăm tự tin mình nhất định làm được".
Nhưng
cuộc sống chẳng khi nào có thể đoán trước, chính trị lại chi phối tất
cả, nhất là trong thời chiến tranh loạn lạc. Hỗn loạn 25/6 nổ ra, ông
cùng em trai phải li tán gia đình.
Qua
quen biết, ông nhận được một công trình của quân đội Mỹ. Dự án phủ
xanh nghĩa trang của quân đồng minh trong mùa đông tuyết giá rất gấp về
thời gian, ai cũng cho là không thể làm được. Vậy mà ông vẫn làm được
hoàn hảo bằng cách mua cây lúa ở nơi khác, vận chuyển cả gốc về phủ
lên. Dự án được hoàn thành còn ông được Tổng thống Mỹ Eisenhower khen
hết lời.
Với công trình Koriong (cầu đường bộ bắc qua sông Hàn) sau đó, ông học được một bài học quan trọng là: "Việc học hỏi những người trẻ hơn, có địa vị thấp hơn mình những điều mà mình không biết, không có gì là xấu hổ". Ông đã học được rất nhiều từ các chuyên gia kiến trúc trẻ người Mỹ, từ thiết kế đến quản lý chất lượng công trình.
Chung
Ju-Yung thu được thành công từ sửa chữa ôtô đến xây dựng nhà ở, cầu
đường, những lĩnh vực khó khăn cần ý tưởng và kinh nghiệm cũng như sự
sáng suốt. Đối với thành bại trong đời, ông quan niệm chìa khoá chính là
hành động và thời gian. Cũng chính phương trâm này đã giúp ông cạnh
tranh được với các công ty xây dựng nước ngoài.
Trước
sự ngạc nhiên của người thân và công nhân, ông lại có thêm một quyết
định táo bạo là chuyển sang lĩnh vực đóng tàu. Là người luôn tìm tòi cái
mới, ông coi "cái gọi là đóng tàu nào có khác việc xây dựng là mấy".
Việc cắt thép ra, hàn lại và đặt máy lên, tất cả chẳng phải là những
việc ông vẫn thường làm đó sao? Suy nghĩ của ông biến mọi thứ từ phức
tạp thành giản đơn, từ khó trở thành dễ.
Thế
là công ty đóng tàu Huyndai tại Ulsan ra đời và phát triển như vũ bão.
Đến thập niên 70 của thế kỷ XX, công ty của ông là công ty đóng tàu
lớn nhất thế giới.
"Doanh
nghiệp Hàn Quốc và nền kinh tế Hàn Quốc phát triển như ngày hôm nay
là dựa vào ý chí bất khuất của con người sáng tạo, vào tinh thần tiến
thủ, sự cống hiến hết sức mình của tầng lớp công nhân cần cù và ưu
tú. Tất cả chỉ bằng sức người".
Biến đổi lịch sử
Tình
cảm của cha ông, cũng như những nông dân hiền lành và chất phác, dành
cho đất, khao khát có được một mảnh đất của riêng mình, cũng ấp ủ trong
Chung Ju-Yung ước muốn khai hoang đất đai. Với người Hàn Quốc, việc
khẳng định và mở rộng đất đai trong hoàn cảnh dân số tăng cao và thiếu
lương thực cũng là điều cực kỳ quan trọng.
Giấc
mơ biến vùng biển lồi lõm phía Tây Nam thành đồng bằng đã nhen nhóm
trong ông từ thửa ấu thơ. Đây là công trình dân sự lớn nhất cho đến năm
1983. Vùng biển này nổi tiếng nguy hiểm bởi đá ngầm và nước mạnh, tốc
độ nước đến 6m3/s, khiến những tảng đá to bằng xe hơi vừa ném xuống đã tức khắc biến mất.
Chính
trong khó khăn, con người sẽ nảy sinh sáng tạo: Ông dùng đến sự trợ
giúp của những chiếc tàu chở dầu nặng 230.000 tấn, dài 300m, rộng 45m và
cao 27m. Phương pháp này tiết kiệm được 29 tỷ won. Ông đã phải đục lỗ
những tảng đá 4-5 tấn, lấy dây sắt cột 2-3 tảng vào với nhau rồi dùng
phà ném xuống. Với công trình hơn đê chắn thủy triều dài 6.400m này,
Chung Ju-Yung đã mang lại cho Hàn Quốc hơn 100 triệu mét vuông đất nông
nghiệp.
Sau
đó ông tiếp tục khử mặn đất trong vòng 7 năm và bắt tay trồng thử
nghiệm 13 giống lúa ở các khu vực khác nhau. Ông ôm giấc mơ biến mảnh
đất này thành nơi sản xuất lương thực nhiều hơn cả Califonia (nơi sản
xuất lương thực lớn nhất nước Mỹ).
Năm
1988, khu vực khai hoang Sosan đã lột xác thành mảnh đất nông nghiệp
cơ khí hóa với quy mô lớn. Ngoài hiệu quả trực tiếp là mở rộng lãnh thổ
và tăng thêm nguồn lương thực, nó còn tạo công ăn việc làm cho khoảng
6,6 triệu người mỗi năm.
Ý
tưởng khai hoang mở rộng đất đai và kiến thiết đắp đê chắn thủy triều
của Chung Ju-Yung còn được nhiều nước tiên tiến trên thế giới áp dụng.
Steve Jobs: Từ không bằng cấp đến triệu phú rồi mất hết mọi thứ rồi gây dựng lại cơ nghiệp rồi bị ung thư rồi trở thành tỷ phú.
Steve
Jobs là người sáng lập ra hãng Apple. Apple ngày nay là 1 trong những
công ty công nghệ thành công nhất trên thế giới, với vị trí dẫn đầu về
điện thoại (Iphone), máy tính bảng (Ipad), máy tính xách tay (Macbook),
máy nghe nhạc cầm tay (Ipod). Steve Jobs là 1 trong những doanh nhân
công nghệ thành công và giàu có nhất thế giới và được đề cử là CEO của
thập kỉ.
Tuy
nhiên, để có được thành công như ngày nay, ông đã phải vượt qua những
khoảng thời gian khó khăn nhất trong cuộc đời mình. Ngay từ khi sinh
ra, mọi thứ dường như đã không mỉm cười với ông. Ông được sinh ra bởi 1
nữ sinh và do hoàn cảnh không cho phép, bà đã “đem ông bỏ chợ”. Ban
đầu có 1 gia đình luật sư nhận nuôi ông. Tuy nhiên vào phút chót, gia
đình đó đã quyết định rằng họ không muốn 1 cậu bé do đó rồi ông được 1
gia đình nghèo khó nhận nuôi.
Mặc
dù ông học hành rất chăm chỉ ở trường và được nhận vào trường Reed
College (1 trường tư thục rất nổi tiếng ở miền Đồng Nam Portland, bang
Oregon nước Mĩ). Ông buộc phải bỏ học chỉ sau 1 năm vì cha mẹ nuôi của
ông không có đủ tiền tiết kiệm để trang trải học phí. Ông thậm chí không
có tiền để ăn, phải mang trả lại những cái vỏ chai đã dùng rồi để đổi
lấy 5 cent (đơn vị tiền tệ của Mĩ, 100 cent = 1 dollar) mua bim bim để
sống qua ngày.
Ông
chỉ có 1 bữa ăn ngon mỗi tuần tại thánh đường Hari krishna nơi mà cách
nhà ông đến 7 dặm. Khi đi học đại học, ông không có tiền thuê nhà nên
ông buộc phải ngủ ở nền nhà tại các phòng ngủ tập thể của bạn bè trong
trường.
Vì
ông bỏ học giữa chừng và không có bằng cấp, ông hình thành thói quen
tự giáo dục bản thân qua việc đọc sách miễn phí trong thư viện và có 1
khát khao thành công mãnh liệt. Việc không được giáo dục đúng đăn buộc
ông phải trở thành 1 thiên tài sáng tạo. Bắt đầu từ ga-ra của bố mẹ với
những mẩu vật liệu thừa, ông thiết kế và phát triển 1 chiếc máy tính
có tính cách mạng với tên gọi Apple.
Tuy
không có gì trong tay nhưng với đam mê và sự khát khao thành công của
mình, Steve Jobs lập ra 1 công ty cùng với người bạn của ông là Steve
Wozniak. Từ 1 công ty ban đầu chỉ có 2 người, ông phát triển nó thành 1
công ty với 6000 nhân viên và có giá trị lên tới hành tỉ đô-la chỉ
trong vài năm.
Tuy
nhiên một sự việc bất ngờ xảy ra: Ông bị xa thải bởi vị CEO mới được
bổ nhiệm (người này lại được chính Steve Jobs mời từ Pepsi về). Bạn có
thể tượng tưởng được sự nhục nhã và hổ thẹn khi bị đuổi khỏi nơi mà
mình dã sáng lập ra chứ? Thay vì bỏ cuộc, ông lập ra 1 công ty máy tính
mới với tên gọi NEXT. Công ty này phá sản vài năm sau đó và Steve mất
rất nhiều tiền.
Tuy
nhiên, ông vẫn không từ bỏ và tiếp tục thành lập 1 công ty khác với
tên gọi Pixar Animation. Về sau, Pixar sản xuất ra bộ phim “Toy Story”
(Câu chuyện đồ chơi) và được Disney mua lại, đem lại một khối tiền lớn
cho Steve Jobs.
Khi mọi thứ đang diễn ra 1 cách tốt đẹp, Steve lại bị chẩn đoán mắc
bệnh ung thư tuyến tuỵ và chỉ còn sống được vài tháng nữa. Ông quyết
không từ bỏ, chiến đấu với căn bệnh hiểm nghèo, tiếp tục sự nghiệp gây
dựng lại công ty và danh tiếng cho mình. Khi mọi thứ trở nên vô vọng,
cuộc đời ông lại chứng kiến 1 bước ngoặt mới.
Ông chiến thắng căn bệnh ung thư sau khi khối u được gỡ bỏ và tiếp
tục là kiến trúc sư cho Apple khi ông trở lại nắm quyền. Apple vào lúc
này đang trên bờ vực phá sản do những quyết định sai lầm của ban điều
hành. Công nghệ mà ông đã phát triển từ chiếc máy tính NEXT và Pixar
giúp ông có khả năng biến Apple thành 1 công ty siêu thành công 1 lần
nữa, biến ông trở thành 1 trong những CEO vĩ đại nhất trong mọi thời
đại.
Soichiro Honda: Tôi không biết đến hai từ “thất bại”!

Năm
1938, khi Soichiro vẫn đang là sinh viên, ông bắt đầu một xưởng sản
xuất nhỏ nghiên cứu về vòng piston, với ý định bán lại sản phẩm cho
Toyota. Chàng thanh niên trẻ tuổi làm việc 7 ngày một tuần, thậm chí ngủ
lại ở xưởng. Khi tiền cứ cạn dần mà thành công thì chẳng xuất hiện,
Soichiro đành cầm cố nốt số nữ trang của vợ mình để lấy vốn đầu tư.
Cuối
cùng, ngày mà ông hoàn thành vòng piston để có thể bán lại cho Toyota
đã đến. Đáng buồn thay, người ta nói với ông rằng vòng piston của ông
không phù hợp với tiêu chuẩn của họ! Soichiro đành quay trở lại trường
học trong 2 năm để cải tiến phát minh của mình, đồng thời chịu đựng sự
chế giễu của các kĩ sư khi thấy bản thiết kế của ông.
Ông
vẫn kiên quyết không bỏ cuộc. Thêm 2 năm nữa tiếp tục tranh đấu và cải
tiến, ông đã thành công khi dành được hợp đồng với Toyota. Ông cần xây
dựng một nhà máy để cung ứng sản phẩm cho Toyota. Rủi thay, số phận lại
không mìm cười với ông. Thời điểm đó, chính phủ Nhật đang ráo riết chạy
đua vũ trang và cần bê tông cho các công trình phòng thủ. Vì vậy, ông
không có được số vật tư cần thiết cho việc xây dựng nhà máy của mình.
Vẫn
không đầu hàng, ông đã phát minh ra một quy trình sản xuất bê tông giúp
ông xây dựng được nhà máy. Khi nhà máy được xây xong, mọi chuyện xem
chừng đã thuận lợi để ông có thể bắt tay vào sản xuất. Tuy nhiên, một
lần nữa, vận ông lại gặp hạn. Nhà máy của ông bị máy bay Mĩ oanh kích 2
lần và sắt thép càng trở nên là vật “xa xỉ phẩm”.
Quyết
không bỏ cuộc, ông thu lượm những can xăng thừa bị quân đội Mĩ bỏ lại
–“ Món quà từ Tổng thống Truman”, ông đã gọi chúng như vậy. Xăng giờ trở
thành thứ vật liệu mới giúp ông tái thiết lại xưởng sản xuất của mình.
Có lẽ, ông Trời muốn thử lửa lòng Soichiro. Một trận động đất xảy ra và
nhà máy lần thứ 3 bị phá hủy.
Sau
chiến tranh, sự thiếu thốn về xăng dầu đã buộc mọi người phải đi bộ
hoặc sử dụng xe đạp. Soichiro nhận thấy cơ hội và chế tạo ra một động cơ
nhỏ, gắn vào xe đạp của mình. Những người hàng xóm của ông cũng muốn
một cái, nhưng mặc cho cố gắng, ông vẫn không thể có được vật liệu cần
thiết cho việc sản xuất. Ông cũng chẳng đủ vốn liếng mà xây dựng thêm
một cái nhà máy nữa để chế tạo “xe đạp gắn máy”.
Nhưng
ông vẫn không bỏ cuộc. Ông viết thư cho 18.000 cửa hàng kinh doanh xe
đạp và hỏi họ xem có thể ứng trước tiền ông xây dựng xưởng sản xuất của
mình hay không. Đổi lại, họ sẽ được cung ứng những sản phẩm mới nhất về
“xe đạp gắn máy”- xe máy. Không may, mẫu chế tạo đầu tiên quá nặng nề để
hoạt động hiệu quả, vậy nên ông lại tiếp tục cải tiến và thay đổi. Cuối
cùng, chiếc xe “Super Cub” cũng thành công và gây nên một cơn dư chấn
thực sự ở Nhật. Thành công ở Nhật thôi thúc Honda xuất khẩu sản phẩm của
mình sang các thị trường như châu Âu và châu Mĩ.
Đấy
là câu chuyện về việc hình thành tập đoàn Honda. Liệu khó khăn đó có
phải là khó khăn cuối cùng của Soichiro không? Không bạn à! Khi điều
hành công ty, có vô số vấn đề tài chính mà ông phải đối mặt. Honda gần
bên bờ vực phá sản tổng cộng 5 lần, chỉ cứu được ở phút chót nhờ xoay
chuyển tài tình. Mỗi lần thất bại, Soichiro vẫn đứng lên, học hỏi từ
thất bại và không lùi bước.
Larry Ellison - Tỷ phú vượt lên số phận
Joseph Lawrence Larry Ellison là đồng sáng lập và CEO của Oracle, một công ty phần mềm doanh nghiệp lớn.
Trải qua nhiều thăng trầm trong sự nghiệp, ông vươn lên xếp thứ tư
trong bảng danh sách các tỷ phú giàu nhất thế giới theo bình chọn
của Forbes (tính đến 11/3/2009) và là tỷ phú giàu thứ ba của Mỹ
với tài sản ước tính khoảng 22,5 tỉ USD.
Bén duyên với công nghệ phần mềm
Larry Ellison sinh ra ở The Bronx, New York. Theo yêu cầu của mẹ mình, ông đã được trao cho chú dì ở Chicago nuôi dưỡng ngay từ khi ông mới có 9 tháng tuổi. Cuộc sống thiếu thốn tình cảm ruột thịt đã theo ông suốt quãng đời niên thiếu và cho đến khi ông 48 tuổi, ông mới được gặp mặt đấng sinh thành.
Ellison lớn lên trong một căn hộ hai phòng ngủ ở giữa bờ biển Nam
Chicago và khu phố Do Thái. Ông tốt nghiệp Trường tiểu học Eugene
Field vào tháng Giêng năm 1958 và đã tham dự Trung học Sullivan
cho tới mùa thu năm 1959 trước khi chuyển đến South Shore. Ông đã
từng hai lần theo học đại học nhưng đều không “đến nơi, đến chốn” như
bao sinh viên khác.
Lần thứ nhất, ông theo học trường Đại học Illinois tại
Urbana-Champaign. Tại đây, ông được nhiều thầy cô và bạn bè đánh giá là
một sinh viên thông minh và có nhiều ý tưởng sáng tạo. Nhưng dòng
đời quá nghiệt ngã, ông phải thôi học vào năm thứ hai sau khi mẹ
nuôi qua đời.
Lần thứ hai, ông theo học tại trường Đại học Chicago. Nhưng ông cũng chỉ tham dự được 1 khóa học tại đây bởi kinh tế gia đình khó khăn. Trước đó, cha ông, một nhân viên làm việc cho chính phủ, đã bị thiệt hại nặng nề khi đem tài sản, vốn liếng đầu tư bất động sản đúng vào thời điểm cuộc Đại suy thoái kinh tế 1930.
Nhìn lại quãng đời thơ ấu của mình, Larry Ellison nói, chính cuộc sống khó khăn đã tôi luyện cho tôi sức bền trước những thách thức, sự tự đứng lên sau mỗi lần vấp ngã. Và điều may mắn hơn cả, tôi đã tìm ra được nguồn sống của cuộc đời mình. Chẳng ngờ, niềm vui, nguồn sống ấy lại “quẩn” lấy cuộc đời ông đến tận bây giờ.
Thời gian ông tham dự Đại học Chicago, Ellison đã có một mùa hè chuyển tới bắc California, nơi ông sống với người bạn Chuck Weiss. Chính tại nơi đây, ông đã lần đầu tiên có cơ hội tiếp xúc với máy tính và khơi dậy trong ông niềm đam mê mãnh liệt. Vào lúc 20 tuổi, ông chuyển tới miền bắc California.
Gây dựng sự nghiệp
Trong suốt những năm 1970, Ellison từng làm việc cho Ampex Corporation. Một trong các dự án của ông là xây dựng một cơ sở dữ liệu cho CIA, mà ông đặt tên là “Oracle”. Đến năm 1977, ông mạnh dạn thành lập Oracle, với số vốn ban đầu vỏn vẹn 2.000 USD, số tiền ông dành dụm được sau một thời gian dài tích góp, nhưng dưới tên “Phát triển phần mềm phòng thí nghiệm (Software Development Laboratories - SDL)”.
Đến năm 1990, Oracle sa thải 10% (khoảng 400 người) lao động của mình nhằm cân đối tiền mặt và doanh thu. Khủng hoảng này của Oracle bắt nguồn từ việc hoạch định sai chiến lược marketing cho công ty.
Ông đã lập ra kế hoạch tiếp thị “marketing lên phía trước” trong đó cho phép người bán thúc giục khách hàng tiềm năng để mua số lượng lớn nhất của phần mềm có thể cùng một lúc. Và những người bán hàng sau đó đặt giá trị của giấy phép bán hàng trong tương lai ở quý hiện tại, nhằm tăng tiền thưởng của họ.
Song thực tế lại thấp xa so với tương lai được đặt trước này. Vì thế gần như Oracle đã phải kinh doanh không công. Ellison sau này nói rằng, Oracle đã được thực hiện “một sai lầm kinh doanh đáng kinh ngạc”. Khủng hoảng này đã khiến cho Oracle đối mặt với nguy cơ phá sản, song Ellison vẫn bền chí, vực dậy công ty từng bước, từng bước.
Làm CEO với mức lương 1 USD/năm
Larry Ellison đã thực sự gây bất ngờ với mọi người khi tuyên bố mình sẽ làm việc cho Oracle với mức lương cơ bản 1 USD. Thật ra, đây là một quyết định được bắt nguồn từ việc trước kia Steve Jobs, người mà ông đã từng quen biết khi được mời về làm cho Apple Computer, đã làm việc cho Apple Computer với mức lương 1 USD/năm trong năm 2000 khi công ty này tung ra dòng sản phẩm “iPod” làm thay đổi vận mệnh của mình.
Lịch sử kinh tế thế giới cũng đã từng chứng kiến rất nhiều trường hợp các CEO tuyên bố sẽ làm việc với mức lương 1 USD/năm như Lee Iaccoca của Chrysler vào năm 1978, Edward Liddy của AIG... Câu chuyện “CEO- 1 USD” thường xuất hiện vào thời điểm công ty đang đối mặt với khó khăn.
Oracle cũng giống như rất nhiều công ty khác đang phải đối mặt với
tình trạng khó khăn trong vấn đề tài chính, giá cổ phiếu sụt giảm,
nhiều người lao động bị mất việc làm.
Cũng như nhiều cổ đông khác, Ellison hiểu được tình cảnh của họ và sẵn sàng dùng tiền của mình để điều hành hoạt động công ty, điều mà hầu hết các CEO không sẵn sàng để làm. Larry Ellison hiện đang làm việc với mức lương 1 USD/ năm. Ban lãnh đạo có thể chi trả cho ông nhiều hơn nữa. Nhưng ông làm điều này vì chính những cổ đông của mình.
Lý Gia Thành: Tỷ phú làm giàu từ hai bàn tay trắng
Với
khối tài sản trị giá 26,5 tỷ USD, năm 2008, Lý Gia Thành có tên ở vị
trí thứ 11 trong bảng xếp hạng “Những người giàu nhất thế giới” của
Forbes. Trước đó, năm 2001, ông được Tạp chí Asiaweek bầu chọn là nhân
vật quyền lực nhất châu Á. Năm 2006, tại Singapore, Tạp chí Forbes trao
tặng ông giải thưởng “Thành tựu trọn đời”, đây là giải thưởng tôn vinh
những nhà kinh doanh xuất sắc có và cống hiến cả đời cho ngành kinh
doanh. 82 tuổi, Lý Gia Thành vẫn đang là Chủ tịch HĐQT của hai tập đoàn
lớn là Hòa Ký Hoàng Phố và Trường Giang Thực Nghiệm. Đã ở vào cái tuổi
xưa nay hiếm, ông vẫn khao khát được cống hiến hết sức mình như thời còn
trai trẻ.
Dù
hai tập đoàn của Lý Gia Thành luôn chiếm tới hơn 10% giá trị thị trường
chứng khoán Hồng Kông và có mặt ở hơn 50 quốc gia, nhưng tiền bạc dường
như không còn là mối quan tâm lớn nhất với ông. Lịch làm việc hàng ngày
của vị tỷ phú họ Lý lúc nào cũng kín tới mức… “một con kiến cũng không
chui lọt”.
Lý
Gia Thành sinh ra trong một gia đình nhà Nho ở tỉnh Quảng Đông, Trung
Quốc. Năm 1941, do ảnh hưởng từ cuộc kháng chiến chống Nhật, ông cùng
cha mẹ và hai em đến định cư tại Hồng Kông.
Nhưng
thật trớ trêu, cũng vào năm đó, cuộc chiến Thái Bình Dương bùng nổ, nó
khiến cho thị trường Hồng Kông tụt dốc thảm hại và những gia đình nhập
cư nghèo khổ phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Vào đúng cái lúc khó khăn
nhất, cha ông bệnh nặng, đến mùa đông năm 1943 thì qua đời. Vậy là gánh
nặng áo cơm dồn lên vai người con cả, không còn cách nào khác, Lý Gia
Thành đành phải bỏ học để bươn trải – năm đó ông mới 15 tuổi.
Ông
bắt đầu với việc học nghề để trở thành công nhân trong tiệm đồng hồ,
sau đó vào làm công trong xưởng sản xuất đồ nhựa. Lý Gia Thành làm việc
rất chăm chỉ và thật thà, chính điều đó đã giúp ông được tín nhiệm với
vị trí giám đốc xưởng sản xuất đồ nhựa khi 20 tuổi.
Hai
năm sau, Lý Gia Thành lập một xưởng sản xuất nhựa cho riêng mình, đặt
tên là Trường Giang, đó cũng là tiền đề cho sự ra đời của Công ty Trường
Giang 7 năm sau đó, chuyên sản xuất đồ chơi, hoa nhựa… Năm 30 tuổi, Lý
Gia Thành từng bước thử sức trong ngành kinh doanh bất động sản và ra
đời hai tòa nhà công nghiệp tầm cỡ khu vực chỉ hai năm sau đó.
Những
năm tiếp theo, ông không ngừng mở rộng quy mô để Trường Giang Thực
Nghiệp từng bước trở thành một trong 10 tập đoàn hùng mạnh nhất Hồng
Kông và có sức ảnh hưởng rất lớn trên thị trường chứng khoán thế giới.
Cũng trong giai đoạn này, ông đã gây dựng nên Tập đoàn Hòa Ký Hoàng Phố,
chuyên đầu tư vào các lĩnh vực tàu biển, bất động sản, năng lượng, xây
dựng…
Lý Gia Thành cho rằng: “Chỉ
khi nào bản thân nhận thức rõ việc kiếm tiền không phải là chuyện dễ,
lúc đó chúng ta mới trở thành một người có trí tuệ, mới thực sự thành
công trong lao động. Danh lợi không phải là điều quan trọng nhất; làm
kinh tế không có chữ tín sẽ không thành; sống lương thiện mới là nguồn
tài nguyên dồi dào; bền bỉ là pháp bảo của giàu sang…”.
Richard Branson: Tỷ phú học dở
Khi
người bà kính yêu của Richard Branson bước sang tuổi 99, bà đã viết thư
cho ông và nói rằng 10 năm qua là thời gian tuyệt vời nhất của cuộc đời
bà. Bà khuyên ông phải đọc cuốn sách “A brief story of time” của
Stephen Hawking. Đó là cuốn sách hay nhất của bà. “Con chỉ có một cuộc
đời, do vậy hãy vận dụng nó một cách tốt nhất.” Những lời nói đó có ý
nghĩa vô giá đối với Richard, đã thẳm sâu vào trái tim và niềm tin gây
dựng sự nghiệp độc lập của ông.
Hiện
là chủ nhân của hơn 150 tổ chức kinh doanh mang thương hiệu Virgin, với
số tài sản cá nhân trên 3 tỉ đô la Mỹ, Richard Branson đã chung thành
với ước mơ của cuộc đời mình. Ông đã khắc ghi lời khuyên của người bà
kính yêu, không ngừng phấn đấu để tận dụng triệt để từng khoảng khắc vô
giá của cuộc đời mình.
Richard
Branson không “lướt qua” trường học. Đó không phải là sự thách thức đối
với ông, đó là cơn ác mộng. Với đôi mắt bị cận thị, cộng thêm khuyết
tật viết sai chính tả đã làm ông xấu mặt bao lần trước bạn bè khi luôn
phải nhớ và đọc thuộc từng chữ một trước lớp. Ông biết rõ rằng đợt kiểm
tra IQ chỉ để vạch ra những điểm yếu của ông. Rồi còn nhiều đợt kiểm tra
khác nữa, tất cả đều chống lại ông.
Tất
cả những thứ đó không thể đo được năng lực của ông, lòng đam mê thể
thao, tính cầu tiến hay ngọn lửa đang thiêu đốt trong tâm trí giúp tìm
ra con đường dẫn đến thành công. Làm sao đo được những yếu tố thành đạt
quan trọng nhất: là tài năng kết nối mọi người cả ý trí lẫn tâm hồn, là
tài thổi bùng lên ngọn lửa sức mạnh và tính tiến thủ của mọi người giúp
họ có đủ can đảm sống vì ước mơ. Trường lớp? Các đợt kiểm tra IQ…có đo
được những thứ đó không?
Thật
là một sự mỉa mai, tài năng của Richard Branson bắt đầu biểu hiện cũng
chính trong khuôn viên nhà trường – nơi trú ngự những ác mộng của ông.
Thất vọng với sự cứng nhắc của những nội quy, cung cách làm việc của nhà
trường, và luôn cảm thấy nguồn năng lượng vô tận của thế hệ sinh viên
thập niên 60, ông quyết định thành lập một tờ báo riêng. Đó là một việc
làm không đáng được chú ý lắm, ngoài mục đích muốn xích các trường học
lại gần nhau hơn. Tờ báo sẽ quan tâm nhiều hơn đến sinh viên chứ không
phải trường học. Nó sẽ bán quảng cáo cho các công ty lớn, sẽ đăng bài
viết của các nghị viện, các ngôi sao nhạc Rock, những nhân vật tiêu biểu
và các ngôi sao màn bạc. Tờ báo chắc chắn sẽ mang lại những thành công
thương mại - đó là business plan của chàng trai trẻ 17 tuổi đã viết cùng
người bạn của mình, Jonny Gems.
Hai
người cũng nhận được những trợ giúp nho nhỏ. Mẹ của Richard đã tài trợ 4
bảng để chi trả những khoản chi tiêu cho bưu điện và điện thoại. Tất cả
những thứ đó cũng đủ cho một sự bắt đầu. Mọi người làm việc dưới tầng
hầm nhà của Richard, tằn tiện cho mọi thứ để nuôi hy vọng và sự phát
triển lâu dài cho tờ báo. Số báo đầu tiên ra mắt với trang bìa là hình
của một sinh viên vẽ bởi Peter Blake – người đã thiết kế vỏ album
Sergeant Pepper của ban nhạc huyền thoại The Beatles. Peter Blake cũng
đồng ý để tờ báo phỏng vấn mình. Tờ “Student” được ra mắt vào tháng 1
năm 1968. Ông hiệu trưởng trường học của Richard Branson và Jonny đã
viết: “Chúc mừng, Branson. Ta tiên đoán rằng một là anh sẽ kết thúc
trong nhà tù hoặc sẽ trở thành triệu phú.”
Năm
1970, Chính phủ Anh hủy bỏ hiệp định gìn giữ giá bán lẻ, nhưng không
một cửa hiệu nào được chọn để triết khấu giá cả cho băng đĩa. Richard
Branson đã nhận ra cơ hội cho tờ báo “Student” bán băng đĩa giá rẻ theo
cách quảng cáo và giao hàng qua bưu điện.
Đơn
đặt hàng được gửi về toà soạn như những cơn nước lũ, công việc kinh
doanh mới này mang lại lợi nhuận gấp nhiều lần so với thu nhập từ những
đơn đặt mua báo dài hạn. Richard đã nhanh nhậy nắm bắt lấy thời cơ có
một không hai này và đã thuê một số sinh viên để thành lập một thương
mại bán đĩa nhạc giá rẻ. Mọi người đã tìm và thuê lại một cửa hàng bán
giày nhỏ, thuyết phục chủ nhân để được đóng những cái giá treo trên
tường và mang đến một số đồ đạc cần thiết cho cửa hàng đầu tiên. Mọi
người sẽ làm tất cả để luôn có đông đảo người qua lại nơi cửa hàng. Cái
họ cần bây giờ là một thương hiệu.
Đề
xuất đầu tiên là “Slipped Disc”. Là một cụm từ dễ nhớ, có ấn tượng, sẽ
có tiếng vang đến số lượng người mua rộng hơn. Sau đó một người trong
nhóm chợt thốt lên “Virgin” (Trinh Nữ). Người con gái có ý tưởng đó giải
thích: “Vì chúng ta hoàn toàn là trinh nữ trong buôn bán!”. Khi hồi
tưởng lại quá khứ, Richard Branson hài lòng với sự lựa chọn thương hiệu
Virgin. Chắc chắn một điều rằng Slipped Disc Airlines sẽ không có nhiều
khách hàng bằng Virgin Airlines.
Virgin
Airlines phác thảo được rõ nét nhất phong cách công ty của Richard
Branson. Mặc dù luôn có những thăm trầm và cạnh tranh trong hàng không,
ông đã lập ra đường bay qua Atlantic với giá cả phải chăng cùng những
thú vị không ngờ tới trong lĩnh vực hàng không. Đó là dịch vụ In-flight
mát xa, ăn kem và xem phim, tiếp đó là phòng tắm có vòi hoa sen và những
phương tiện tập thể dục. Với tất cả những đổi mới không ngờ tới đó,
Virgin Airlines đã trở thành bộ máy in tiền khổng lồ.
Tuy
có hơn 150 chi nhánh, công ty ngày ngày vẫn “in tiền” nhưng Richard
Branson không phải giám sát tỉ mỉ. Ông không có ý định thành lập những
tập đoàn cồng kềnh với số lượng nhân viên quá nhiều. Nếu có họp mặt cũng
chỉ rất ít. Cung cách làm việc của ông là giữ các chi nhánh vừa, độc
lập quản lý sau đó dùng “chiếc đũa thần kỳ” của mình để trao quyền cho
mọi người, giúp họ có đủ những yếu tố cần thiết để thành công.
Về
quảng cáo và gây sự chú ý cho những bước đột phá của các thương hiệu
ông luôn có những ý tưởng táo bạo, những sáng kiến mang tính chất 100%
Virgin. Tới dự buổi lễ họp báo chí quốc tế, ông đã hóa thân thành một
phi công quân đội thực thụ để công bố Virgin Airlines. Chỉ có thương
hiệu Virgin mới gắn liền với những kỷ lục như bay vòng quanh trái đất
bằng kinh khí cầu, vượt Đại Tây Dương bằng thuyền…Đó cũng là một trong
những yếu tố quan trọng nhất giúp ông thành công.
“Tất
cả mọi thứ đều từ con người” – ông đã nhấn mạnh trong cuộc phỏng vấn
với David Sheff của tạp chí Forbes. Một tháng một lần ông thường có thói
quen viết thư cho 5000 nhân viên của Virgin, luôn khích lệ mọi người
viết thư hoặc gọi điện cho ông khi cần trao đổi về những khó khăn, sáng
kiến hoặc hoài bão cá nhân…
Michael Dell: Tỉ phú không bằng đại học
Trong
giới công nghệ thông tin, không ít tỉ phú làm nên sự nghiệp khi không
có bằng cấp trong tay. Một trong số đó là Michael Dell. Ông đã chứng
minh rằng, để thành công, không nhất thiết phải có bằng đại học.
IBM
và Compaq sao chép chiến lược marketing của Michael Dell. Các khách
hàng của ông hài lòng với dịch vụ mà Dell cung cấp. Các cổ đông sung
sướng với cổ tức nhận được hằng năm. Wall Street gọi ông là “cậu bé
vàng”, còn các nhà quản lý nhiều quỹ đầu tư hăng hái đầu tư cùng ông.
Tập đoàn Dell Computer của ông nắm giữ nhiều nhà máy sản xuất máy vi
tính, nhiều văn phòng, nhà cửa và các loại hình bất động sản khác ở
nhiều nơi trên thế giới.
Michael Dell sinh ngày 23.2.1965,
trong một gia đình có người bố - ông Aleksandr Dell, làm bác sĩ chỉnh
hình và mẹ là bà Lorraine làm nghề môi giới. Thu nhập của gia đình thuộc
loại trung lưu, chính vì thế mà bố mẹ Michael nghĩ công việc của mình
là hình mẫu và khuyên cậu con trai nên theo học nghề y để đảm bảo một
cuộc sống bền vững. Tuy nhiên ngay từ nhỏ Michael đã có tư duy độc lập,
kiên trì và quyết đoán.
Người ta đồn rằng, vào năm 8 tuổi,
Michael quyết định không học các lớp thuộc bậc tiểu học mà làm đơn xin
thi hàm thụ toàn bộ chương trình của bậc học này. Một câu chuyện lạ khác
khi Michael đi câu cá vào năm 12 tuổi: Trong khi những người lớn tuổi
ngồi câu, thì Michael ngồi trên bờ và bắt đầu đan bện những sợi dây có
khả năng móc được 10 chiếc lưỡi câu. Những người lớn thông minh cười
Michael: “Cậu làm trò vô bổ như thế làm gì? Chúng ta đi câu để thư giãn, còn cậu làm thế chẳng lợi ích gì!”.
Tuy thế, đến khi ra về Michael Dell là người câu được nhiều cá nhất. Từ
đó đến nay, trong bất kỳ tình huống nào Michael luôn áp dụng nguyên
tắc: “Nếu như bạn cảm thấy ý tưởng nào đó tốt, thì ngay lập tức phải thử
nghiệm nó trên thực tế”.
Vài năm sau đó,
Michael nghĩ ra ý tưởng kinh doanh tem bằng cách đăng rao vặt trên các
tờ tạp chí dành cho người chơi tem. Công việc giúp Michael thu lợi 2
ngàn USD và cậu mua được chiếc máy vi tính đầu tiên trong đời. Ngay sau đó Michael tháo rời chiếc máy vi tính để xem nó hoạt động như thế nào.
Khi lớn hơn một chút, Michael Dell quyết định kiếm thêm khi làm phát hành cho tờ báo Houston Post của thành phố nơi cậu sống. Khi đó, Michael nghĩ ra một nguyên tắc như kim chỉ nam của đời mình: “Không quan trọng là bán thứ hàng hóa gì mà là bạn làm điều đó như nào”.
Cậu nghĩ ra phương pháp marketing trực tiếp, dùng số tiền thuê các bạn
của mình ghi tên tuổi, địa chỉ các cặp đang chuẩn bị kết hôn rồi nạp
danh sách đó vào máy vi tính. Sau đó Michael không gửi thư mời mua báo
như thông thường mà trong 2 tuần thực hiện chương trình khuyến mãi quà
tặng cưới nếu họ đăng ký mua báo. Trong lần này Michael kiếm được 18
ngàn USD và sắm cho mình chiếc BMW. Người chủ cửa hàng xe rất ngạc nhiên
khi thấy chàng trai 17 tuổi rút 18 ngàn USD tiền mặt để mua chiếc BMW.
Khởi đầu thành công
Cho
dù Michael có những thành công, nhưng bố mẹ vẫn khuyên cậu thi vào đại
học tổng hợp hoặc trường y. Cuối cùng thì cậu thi vào khoa Sinh, Đại học
tổng hợp Texas. Khi đó chiếc máy vi tính cá nhân IBM bắt đầu thịnh
hành. Các sinh viên háo hức tiếp cận với thế giới công nghệ cao, nhưng
các đại lý lại bán chiếc máy với giá cắt cổ. Dell nhớ lại: “Quả là
loại máy đơn giản, nhưng lại có giá gần 4 ngàn USD. Bán được chiếc máy
vi tính, đại lý trả cho IBM 2 ngàn 500 USD. Tôi nghĩ, tại sao chúng tôi
lại phải trả tiền cho đại lý mà không có quyền đặt hàng mà mình cần? Tại
sao không bán máy vi tính thẳng từ nhà máy đến người tiêu dùng cuối
cùng?”. Nói là làm, Michael Dell bắt đầu hiện thực hóa ý tưởng.
Michael
tìm mua các máy vi tính tồn kho của IBM, rồi trong căn phòng của mình,
chàng trai cải tiến chiếc máy bằng cách tháo bỏ một số bộ phận mà thị
trường không thông dụng, thêm vào một số chức năng mà người tiêu dùng
thật sự cần. Sau đó Michael rao trên báo bán máy vi tính với giá rẻ hơn
15% giá thị trường. Các bác sĩ tư, các công ty luật, các doanh nhân rất
chuộng máy tính của Dell. Khi đó bố mẹ Dell rất lo lắng, khuyên con trai
phải cố học sau đó hãy nghĩ đến chuyện kinh doanh. Michael chỉ tạm
ngừng 1 tháng, rồi lại tiếp tục bán máy vi tính với doanh số hơn 50.000
USD/tháng. Chàng trai trẻ tiếp tục gây sốc cho bố mẹ khi tuyên bố muốn
thành lập hãng riêng để cạnh tranh với chính hãng IBM hùng mạnh.
Với
những người lớn tuổi như bố mẹ của Michael thì đó là điều không tưởng.
Cuối cùng thì cả gia đình Dell thỏa thuận: Vào kỳ nghỉ hè, nhà tỉ phú
tương lai sẽ “thử” thành lập hãng, nếu không thành công thì phải quay
trở lại trường đại học. Michael rút hết số tiền tiết kiệm và thành lập hãng Dell Computer Corp. Đó là ngày 3.5.1984, khi Michael mới 19 tuổi.
Michael
Dell thuê một căn phòng làm văn phòng và thuê nhân viên đầu tiên – một
nhà quản lý 28 tuổi, để lo tài chính và công việc hành chính. Vẫn theo
cách cũ, tiếp tục cải tiến máy vi tính IBM, nhưng Dell hình thành triết
lý: “Bán cho khách hàng không phải những thứ bị bỏ xó trong kho mà là
những thứ mà họ cần và phải rẻ hơn so với các mặt hàng cùng loại”. Theo
các đơn đặt hàng trực tiếp của khách hàng, Dell tìm những linh kiện cần
thiết để trang bị cho từng chiếc máy một. Kết quả là chỉ trong tháng đầu
tiên, doanh số bán hàng đạt 180 ngàn USD, còn tháng thứ hai là 265 ngàn
USD.
Không
ai trong số các đại gia kinh doanh máy vi tính để ý đến những nguyên
tắc marketing mang tính cách mạng trong kinh doanh của Dell. Sau 1 năm,
mỗi tháng Dell bán được 1 ngàn máy vi tính và thuê thêm nhiều nhân viên,
còn doanh số thì tăng vùn vụt. Tuy chỉ là hãng nhỏ so với các hãng có
doanh số hàng tỉ USD, nhưng Dell đã chinh phục thị trường bằng các bước
mà không hãng nào tiến hành: Nếu khách hàng không hài lòng thì sẽ trả
lại tiền. Và hơn hết Dell hiểu rằng, máy vi tính không phải là biểu
tượng của sự sang trọng, mà là công cụ để làm việc. Vì vậy, trong trường
hợp máy bị hư hỏng, thì sẽ được sửa chữa ngay. Ngoài ra còn có dịch vụ
tư vấn 24/24 giờ mà theo lời Dell chỉ trong vòng 5 phút, 90% những người
hiểu biết sau khi nghe chuyên gia chỉ dẫn, mọi “sự cố” đều được khắc
phục. Vào ngày mà lý ra Dell tốt nghiệp đại học, hãng của Dell đạt doanh
số 70 triệu USD/năm. Dell ngừng kinh doanh máy vi tính của các nhà sản
xuất khác để quyết định tự sản xuất các sản phẩm của riêng mình.
Làm
cuộc cách mạng trong marketing bằng cách bán hàng trực tiếp từ nhà sản
xuất đến người tiêu dùng. Sản xuất mặt hàng mà thị trường cần, chứ không
phải sản xuất xong mới thuyết phục người tiêu dùng sử dụng nó. Michael
Dell trở thành một trong những nhà kinh doanh tài ba nhất. Thành lập
hãng riêng vào năm 19 tuổi, đến năm 26 tuổi ông là một trong những lãnh
đạo hãng trẻ tuổi nhất có mặt trong top 500 của Fortune. Và đến năm
2005, khi ở tuổi 40, tài sản của ông là 18 tỉ USD và ông là người giàu
thứ 4 của Mỹ. Trong năm 2009 này, tạp chí Forbes đánh giá Dell có 12,3
tỉ USD. Ông đứng thứ 25 trong số những người giàu nhất thế giới.
Nếu
Michael Dell nghe theo lời khuyên của bố mẹ để trở thành bác sĩ, thì
thế giới sẽ không có thêm một nhà tỉ phú. Nhưng may mắn thay Dell đã
không làm như thế. Thay cho một tấm bằng đại học, là các dòng sản phẩm
của một thương hiệu. Thế giới công nghệ cao sẽ buồn tẻ biết bao, nếu
không có Michael Dell.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét